[Ý nghĩa của gà lôi trong văn hóa truyền thống Hàn Quốc]
Người Hàn Quốc có câu “Gà nhà thay gà lôi” hay ‘Không có răng thì nhai bằng lợi’ để chỉ những thứ thay thế cho những thứ cần thiết khi không có. Gà lôi trong tiếng Hàn được gọi là Ggwong. Xưa kia, thay vì dùng thịt bò người ta dùng thịt gà lôi để nấu canh bánh gạo Tteokguk ăn trong ngày Tết. Hàn Quốc vốn là một nước nông nghiệp, không có trâu nên con bò là “đầu cơ nghiệp” đối với nhà nông. Chính vì vậy nên thịt bò rất hiếm. Gà lôi không chỉ ngọt thịt mà còn thường được ví là sứ giả trên không trung, có nghĩa là một loài chim lành. Và có lẽ phong tục ăn canh bánh gạo Tteokguk nấu với thịt gà lôi trong ngày đầu tiên của năm mới cũng là ước nguyện được tiếp thêm thiên vận của người Hàn Quốc. Nhưng bắt được gà lôi không phải là chuyện dễ, nên họ mới có câu cửa miệng “Gà nhà thay gà lôi”.
[Văn hóa săn bắn gà lôi bằng chim ưng tại Hàn Quốc]
Hàng năm, vào dịp trước Tết, khi đất trời phủ trắng một màu tuyết, cánh thợ săn bắt đầu lên núi để bắt gà lôi. Họ không dùng bẫy, không dùng lưới, mà dùng chim ưng để bắt gà lôi.
Gà lôi có tên gọi chung là Ggwong, nhưng người ta lại gọi con mái là Ggaturi và con trống là Jang-ggi. Gà lôi trống có bộ lông sặc sỡ rất đẹp. Kỹ thuật đi săn bằng chim ưng gọi là “Maesanyang” chứ không phải là Ggwongsanyang. Người thợ săn gà lôi bắt chim ưng nhỏ, đích thân nuôi và huấn luyện nó cách săn gà lôi. Trong các loài chim ưng thì chim ưng Songgolmae và Chammae là các giống có khả năng săn mồi tốt nhất. Chim ưng Songgolmae có khả năng hạ cánh đột ngột với tốc độ nhanh khi phát hiện ra con mồi. Do chim ưng có mỏ và bộ móng vuốt sắc như dao, nên thường thì con mồi bị chết ngay sau lần tấn công đầu tiên. Chuyện kể rằng trong thời kỳ Joseon, có loài chim ưng lớn tên là Haedongcheong (Hải Đông Thanh), thậm chí còn rất được ưa chuộng ở Trung Quốc. Chim ưng Chammae thì có đặc tính dùng móng vuốt làm con mồi ngạt thở hoặc dùng mỏ nhọn mổ thủng ức con mồi. Nó được ví với hổ là chúa tể sơn lâm. Điều này cũng có nghĩa là chim ưng Chammae được coi như là chúa tể trên bầu trời. Chim ưng Chammae non chưa mọc lông cánh được gọi là Boramae, và là biểu tượng của không quân Hàn Quốc. Chim ưng săn do con người nuôi và huấn luyện có tên gọi chung là Sujini. Nuôi được khoảng một năm thì có tên là Chojini, hai năm là Jaejini và ba năm là Samjini. Chim ưng mới được huấn luyện một năm là dũng mãnh nhất. Trong cuộc đi săn, người thợ săn hú lên những tiếng “U! U!”, những con gà lôi ẩn nấp đâu đó trong bụi cây trong rừng trên vách núi hễ bay ra là khó lọt khỏi móng vuốt của chim ưng.
Người thợ săn Hàn Quốc trang trí đuôi chim ưng săn của mình rất cầu kỳ. Thứ trang sức này có tên gọi là Bbaejitche. Họ còn gắn tên chủ chim là Sichimi và một chiếc chuông nhỏ. Khi bắt được con mồi và xẻ thịt, tiếng chuông sẽ báo cho chủ chim biết là chim ưng đang ở đâu. Chủ chim sẽ phải nhanh tay lượm lấy con mồi trước khi chim ưng kịp ăn thịt. Thời xa xưa, đi săn bằng chim ưng Maesanyang từng là một thú vui ở Hàn Quốc. Theo sử ký ghi chép về thời kỳ Tam Quốc là Goguryeo, Baekje và Silla của Hàn Quốc thì vua Pháp Vương của vương quốc Baekje theo đạo Phật nên cấm sát sinh và ra lệnh cho thợ săn phải phóng sinh toàn bộ chim ưng. Nhưng trong thời Goryeo thì lại có cả một phủ chuyên huấn luyện chim ưng săn mồi có tên gọi là Eungbang (Ưng Phòng). Trong bài thơ cổ Sijo của học giả Kim Chang-eop sống vào thời Joseon có đoạn:
Chú chim ưng mới ngày nào non nớt chỉ bằng một thước,
Nay đã đủ lông đủ cánh dũng mãnh săn mồi
Đeo trang sức lên đuôi chim cùng chiếc chuông khi hoàng hôn rủ bóng
Đời người đại trượng phu như thỏa nguyện bấy lâu
Giờ đây không còn nhiều người có thú vui đi săn bằng chim ưng, nhưng nét văn hóa truyền thống này của Hàn Quốc vẫn đang được duy trì. Năm 2010, truyền thống đi săn bằng chim ưng của 11 nước trên thế giới, trong đó có Hàn Quốc, Mông Cổ, Tây Ban Nha, Các tiểu vương quốc Ả-rập Thống nhất, đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.
* Ca khúc “Ggaturi Taryeong” (Khúc ca gà lôi mái) / Oh Jeong-suk và Seong Chang-sun
* Nhạc phẩm Namwonsanseong (Thành Namwon) / Kim Su-yeon, Yu Mi-ri, Gang Gyeong-ah, Jo Ju-seon
* Nhạc phẩm Flying Bird (Chú chim bay) / Jeong Gil-seon (đàn tranh 12 dây Gayageum)